Chủ đề: “Thanh Tịnh Nội Tâm là nền tảng của Hòa Bình Thế Giới”
Kính bạch Chư Tôn Đức,
Kính thưa Quý vị đại biểu, Quý vị khách quý, cùng toàn thể hội chúng,
Hôm nay là lần thứ IV, Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc được tổ chức tại Việt Nam. Năm 2008, lần đầu tiên Vesak đuợc tổ chức tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình, Hà Nội với chủ đề: “Cống hiến của Phật giáo đối với việc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.” Tiếp theo những lần sau đó là năm 2014 tại chùa Bái Đính, Ninh Bình và năm 2019 tại Trung tâm Văn hóa Phật giáo Tam Chúc, Hà Nam đều nêu lên chủ đề vai trò của Phật giáo trong quá trình tìm về thế giới cũng như Việt Nam trong mối tương quan như một trách nhiệm chung để xây dựng và hiện đại hóa Phật giáo trong tinh tinh thần từ bi, trí tuệ, hợp lưu để tương tác và hóa giải nhằm xây dựng một cộng đồng Phật giáo toàn cầu hoà bình và bền vững.
Hôm nay, trong niềm hân hoan của Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc năm 2025, chúng ta cùng nhau quán chiếu về một chủ đề luôn luôn đòi hỏi sự cập nhật kịp thời trước nhu cầu thời đại nên tuy phát xuất từ căn bản truyền thống nhưng vô cùng sâu sắc và cấp thiết: “Thanh tịnh nội tâm là nền tảng của hòa bình thế giới.” Bởi vậy, đây không chỉ là một câu khẩu hiệu mang tính lý tưởng, mà còn là một định hướng hành động, một tiến trình chuyển hóa và phát triển từ trong ra ngoài, từ cá nhân đến cộng đồng, và từ cộng đồng đến một thế giới mới đang thay đổi với tốc độ chóng mặt của truyền thông, giao thông, điện toán và trí tuệ nhân tạo.
Trong khung cảnh Vesak, nhân dịp kỷ niệm ba sự kiện trọng đại trong cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: Đản sinh, Thành đạo và nhập Niết bàn, chúng ta càng thấm thía tầm quan trọng của giáo lý từ bi, trí tuệ, cũng như con đường Trung Đạo giúp con người hướng đến giải thoát khổ đau và kiến lập hòa bình chân thật.
Thế giới hôm nay đang đứng trước nhiều thử thách nghiêm trọng: xung đột vũ trang, mâu thuẫn sắc tộc, phân hóa tôn giáo, khủng hoảng môi trường, bất công xã hội và sự bất an lan rộng trong đời sống tâm lý. Trong bối cảnh đó, việc tìm lại một nền tảng đạo đức và tinh thần vững chắc trở thành nhu cầu cấp thiết. Chúng ta thường nói đến việc kiến lập hòa bình trên bình diện chính trị, kinh tế, xã hội; song nguồn gốc sâu xa của sự bất ổn, bạo lực lại bắt rễ từ chính nội tâm bất an, tham lam, sân hận và si mê của con người. Do vậy, hạt giống hòa bình thế giới không thể nảy sinh và đơm hoa kết trái nếu chúng ta không chú trọng đến sự tu dưỡng và thanh tịnh nội tâm.
Nguồn văn hóa Tam Giáo (Nho – Phật – Lão) phương Đông đem giá trị nội tại của cảm thức và tư tưởng làm đầu. Đạo Phật từ nguyên thủy đã biểu tượng hóa suối nguồn nội tại đó bằng một danh xưng hay một khái niệm vừa trừu tượng, vừa cụ thể: Đó là TÂM: “Tâm tức Phật, Phật tức Tâm”. Khái niệm về Tâm trong đạo Phật chính là nói đến Trung Đạo, Thể Tánh, Tánh Không, Phật Tánh… Qua bài tham luận này, chúng tôi mong muốn phân tích mối liên hệ mật thiết giữa thanh tịnh nội tâm và hòa bình thế giới; đồng thời gợi mở những hướng đi cụ thể để từng cá nhân, từng cộng đồng xã hội và chủng tộc cùng nhau xây dựng một nếp sinh hoạt nội tâm thanh tịnh làm phương tiện như những pháp môn hộ đạo và hành đạo.
I – Ý nghĩa Thanh tịnh Nội tâm theo tinh thần đạo Phật.
Nhân thời điểm 50 năm ngày chấm dứt cuộc Chiến tranh Việt Nam, thống nhất đất nước năm 1975, người Việt trong cũng như ngoài nước mà đặc biệt là những người theo đạo Phật có dịp nhìn vào lịch sử, nhìn lui quá khứ và quay lại quan sát chính mình (phản quan tự kỷ) để tự hiểu được mình; từ đó, có cơ hội tìm hiểu người khác về nhiều mặt trước khi có sự tương tác sâu rộng hơn để xác lập tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau. Để đề xuất và xây dựng các phương thức cũng như nguyên tắc trọng tâm nhằm thúc đẩy hòa hợp và hòa giải trong các lĩnh vực nhân văn, khoa học, chính trị, tôn giáo, xã hội, từ cấp độ cá nhân, đoàn thể, cộng đồng quốc gia đến phạm vi quốc tế, cần dựa trên nền tảng tinh thần vững chắc.
Hơn nghìn năm trước, Đạo Hạnh Thiền Sư (1072-1127) đã có thi kệ nói về tinh thần hòa hợp và tương tác trong xã hội, rằng:
Có thì có tự mảy may,
Khi không cả thế gian này cũng không…
Sự hiện hữu, dù nhỏ bé như mảy may cát bụi hay vĩ đại như tam thiên đại thiên thế giới, vẫn có thể tồn tại khi đủ duyên và biến mất khi hết duyên. Khi duyên không đầy đủ, thì cả những gì tưởng như hiện hữu rộng lớn (thế gian) cũng trở thành hư không, chẳng có gì là thường hằng hay cố định.
Với đạo Phật thì phương tiện và mục đích đã được khẳng định từ ngày Đức Phật còn tại thế rằng: Tất cả vô lượng pháp môn đều chỉ là phương tiện tu hành hướng đến mục đích giải thoát, cứu khổ. Tiến trình Tu hành để giải thoát là một dòng chảy liên tu bất tận; tuy không có mốc giới khởi đầu nhưng lại có điểm dừng kết thúc dòng sinh diệt khi công hạnh tu trì đạt đến Đại ngộ như khi Đức Phật bừng tỏa hào quang đạt đến giác ngộ dưới cội Bồ Đề tại Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), Ấn Độ, 2568 năm trước.
Lời thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật sau ngày giác ngộ về Duyên Khởi là vũ trụ quan và đồng thời cũng là nhân sinh quan Phật giáo. Nguyên lý Duyên khởi (Paticca Samuppāda) đã có sẵn trong sự vận hành của Tam thiên Đại thiên thế giới, chẳng phải là sự “sáng thế uyên nguyên” do Đức Phật lần dầu phát kiến. Đó một chân lý thường hằng mà Ngài đã giác ngộ thông qua quá trình thiền định sâu sắc và tâm cơ hàm dưỡng. Đức Phật không tuyên bố tạo ra các quy luật của vũ trụ nhưng khám phá, giải thích và ứng dụng chúng một cách tự nhiên như đối với mặt trời, mặt trăng, các thiên thể và nguồn suối thiên nhiên quanh ta.
Duyên khởi trong tư tưởng của Đức Phật là nguyên lý trung tâm của giáo lý Phật Đà được ứng dụng để giải thích rằng tất cả các pháp (hiện tượng) đều sinh khởi và hoại diệt trong mối quan hệ nhân duyên. Nó được tóm gọn trong câu:
Cái này mới có cái kia;
Cùng sinh cùng diệt không lìa tương sinh.
Nhân duyên tương tác bóng hình:
Hình tan bóng mất lý tình hoàn không.
Nguyên lý này vượt qua hai cực đoan của thường kiến (tất cả tồn tại vĩnh viễn) và đoạn kiến (tất cả chấm dứt hoàn toàn), nhấn mạnh rằng mọi sự vật đều vận hành theo một mạng lưới nhân duyên phức tạp, không tự sinh, không ngẫu nhiên, mà luôn phụ thuộc lẫn nhau, tương tác qua qua 12 cột mốc sinh khởi thường được gọi là nguyên lý Thập Nhị Nhân Duyên.
Duyên khởi là nguồn tư tưởng đột phá mà các trường phái triết học Ấn Độ trước đó không đạt tới và các hệ thống tôn giáo những nghìn năm sau cũng không thể tương đồng. Đấy là sự xác định mang ý nghĩa tri thức luận rằng: Không có linh hồn vĩnh cửu hay là một cái Ngã thường tại. Trong khi nhiều trường phái triết học Ấn Độ tin vào Atman (linh hồn cá nhân) được xem như không khác biệt với Brahman (thực tại tối thượng, toàn năng và vô hạn). Trong trường phái này, Atman chính là Brahman, nghĩa là bản ngã chân thật của mỗi người không khác gì bản thể vũ trụ. Đức Phật khẳng định rằng, không có một bản ngã cố định làm chủ tể. Mọi hiện tượng vận hành dựa trên nhân duyên, hoàn toàn không có sự can thiệp của một đấng sáng tạo đầy quyền năng tuyệt đối ngự trên cao. Bởi vậy, con đường tu hành của đạo Phật là tập trung vào lý tưởng cứu khổ, giải thoát thực tiễn. Đức Phật nhấn mạnh mục đích của việc hiểu kinh tạng dẫu sâu xa và cao viễn đến đâu cũng thảy đều nhắm đến mục đích thoát khỏi khổ đau qua thực hành trong cuộc nhân sinh chứ không phải chỉ để thỏa mãn tri thức siêu hình thuần lý.
Mỗi người đều có Phật Tánh tự tại trong chính mình. Phật Tánh chính là Đức Phật; là Người Thật nằm trong mỗi thân phận con người giả tướng quay cuồng trong vòng sinh diệt thành, trụ, hoại, không. Sẽ tuyệt nhiên không có một đối tượng nào là thế lực khách quan khuấy động để tìm thấy và nắm bắt Chân Tánh bản lai diện mục của chính mình hay của đối tượng, tương tự như không thể khuấy động mặt hồ để tìm thấy bầu trời trong đáy nước. Chỉ có trạng thái mặt nước yên lặng như cái Tâm Chánh Niệm (Ultimate Mindfulness) thì Thật Tướng và Thật Tánh mới giao hòa hiển lộ. Đây chính là món quà tinh thần cao quý nhất mà Phật giáo mang tặng thế giới phương Tây sau 25 thế kỷ đức Phật Thích Ca Mâu Ni hiện thế. Đạo Phật Việt Nam vinh dự có Thầy Nhất Hạnh được thế giới vinh danh là “cha đẻ của Chánh Niệm” khi Thầy gieo mầm tâm linh tinh anh và lắng đọng nhất từ cây đại thụ Bát Chánh Đạo.
Tư tưởng cho rằng “Tịnh” là trái tim bản thể của Phật giáo có thể xuất phát từ nhiều bậc cao tăng và triết gia Phật giáo, đặc biệt là những người theo Tịnh Độ Tông và các trường phái Thiền học.
Một số vị cao tăng và triết gia đã nhấn mạnh vai trò của Tịnh (清净 – thanh tịnh) trong bản chất của Phật giáo, bao gồm:
Long Thọ (Nāgārjuna, 150 –250) – Một triết gia quan trọng của Phật giáo Đại Thừa, người đã luận giải về sự thanh tịnh của Tánh Không.
Lục tổ Huệ Năng (慧能, 638 –713) – Trong kinh Pháp Bảo Đàn, ngài nhấn mạnh về “tâm thanh tịnh” là Phật tính chân thật.
Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ (永明延寿, 904 –975) – Một bậc thầy của Tịnh Độ Tông, người nhấn mạnh rằng sự thanh tịnh của tâm là cốt lõi để đạt được giác ngộ.
Liên Trì Đại Sư (蓮池大師, 1535 –1615) – Một trong những vị cao tăng Tịnh Độ Tông nổi bật, nhấn mạnh rằng tâm thanh tịnh là nền tảng để vãng sinh Tây Phương.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh (1926 – 2022) – Thầy thường pháp thoại về Thanh tịnh tâm và Chánh niệm trong sinh hoạt tập thể và tương tác cá nhân của đời sống.
Khái niệm “Tịnh” trong Phật giáo thường liên quan đến sự thanh tịnh của tâm hồn, đạt được thông qua việc nhận thức rõ ràng về bản chất duyên khởi của các pháp. Khi hiểu rằng mọi hiện tượng đều do duyên sinh và không có tự tính, hành giả có thể buông bỏ chấp trước, giảm thiểu tham, sân, si, từ đó đạt được trạng thái tâm thanh tịnh.
Như vậy, sự thanh tịnh trong đạo Phật được xây dựng trên nền tảng hiểu biết sâu sắc về Duyên khởi, giúp hành giả nhận thức rõ ràng về bản chất của thực tại, từ đó giải thoát khỏi khổ đau và đạt đến Niết-bàn.
Tuy phương tiện và cứu cánh được minh định nhưng không dễ gì minh xác và bảo lưu trong quá trình tu chứng kéo dài theo năm tháng. Dòng sinh mệnh của Đạo Phật Việt Nam phải được nhìn theo dòng chảy Duyên Nghiệp trùng trùng trên căn bản giáo sử thành văn và tâm lý chuyển biến, truyền khẩu bất thành văn. Nhìn theo định kiến đông cứng hay ước mơ bay bỗng tạm bợ theo cảm tính của cá nhân, của phe nhóm hay đoàn thể quần chúng thì một đạo Phật có truyền thống Tam Bảo lâu đời sẽ rất dễ bị biến tướng thành những hiện tượng “siêu nhân” đầy hoang tưởng, lóe lên rồi tắt lịm như ngọn đèn trước gió vẫn thường xuất hiện và dấy lên những phong trào truyền thông xã hội nóng lạnh nhất thời. Đặc biệt là giữa thời đại sôi động của mạng lưới truyền thông vi tính điện tử hiện nay đã có những trường hợp đem hiện tượng tự phát lên các trang mạng xã hội để hý luận về bản chất của đạo Phật nhằm mục đích quảng cáo, tự lợi cá nhân một cách vọng động làm sai lạc hình ảnh quang minh của Phật giáo cũng là những biểu hiện bất tịnh của thời đại.
Giới là kỷ luật cửa thiền cũng như quân kỷ là kỷ luật của quân đội. Chốn thiền môn cũng như tập thể đời thường, nếu không giữ được kỷ cương trong tổ chức, không thi hành kỷ luật trong sinh hoạt thì sẽ đưa đến loạn động. Trường hợp nghiêm trọng nhất là “thượng bất chánh hạ tắc loạn” mà dân gian thường truyền khẩu rằng: “Trên ở không kỷ cang, dưới lập đàn mây mưa!”
Trong Phật giáo, “bất tịnh” (不淨, asubha) có nhiều tầng nghĩa, nhưng chủ yếu đề cập đến sự ô uế, không thanh tịnh, không trong sạch, cả về thân thể, tâm thức và vạn vật trong thế gian. Khái niệm này thường được nhắc đến trong các giáo lý nhằm giúp con người giác ngộ vô thường, diệt trừ tham ái và đạt được giải thoát. Tuy nhiên, tác dụng trực tiếp và nghiêm trọng nhất là bất tịnh hành; nghĩa là sự vọng động trong quá trình tu tập do chính hành giả bị động gây nên.
Tham khảo lịch sử Phật giáo qua các thời đại và triều đại thì trong những thời điểm đạo Phật lâm vào tình trạng bất tịnh nghiêm trọng nhất thường xảy ra trong 4 tình huống:
(1) Thế quyền và giáo quyền tương tác gây ảnh hưởng lên nhau không phân định biên giới giữa Đạo và Đời, giữa quyền lực chỉ đạo và công hạnh tu trì, giữa tịnh tu và vọng động;
(2) Hành giả vượt khỏi khung giới luật, dính dấp vào dục vọng tham ái như phạm tà dâm, tích trữ và lạm dụng của cải vật chất, say mê danh vị chức tước, phẩm hàm của đời thường.
(3) Phân hóa nội bộ tạo ra cảnh “trùng trong chính thân sư tử ăn thịt sư tử” ( Sư tử thân trung trùng, tự thực sư tử nhục.)
(4) Phản sư, diệt tổ, phản bội và lạm dụng của cải vật chất của đàn na thí chủ cúng dường với mục đích hộ pháp, độ tăng.
Phạm giới là Bất Tịnh, là vọng động đi sai nghịch hướng với con đường Chánh Đạo. Song song với bản chất “Tịnh” có sẵn là trạng thái mở rộng, buông xả, trong sáng gọi là “Thanh”: Thanh Tịnh trở thành biểu tượng cao quý và nghiêm cẩn của chốn chùa viện Phật giáo. Cảnh thiền môn thanh tịnh, Tam Bảo trang nghiêm là thế giới tiêu biểu nhất của một ngôi chùa Phật giáo truyền thống đúng nghĩa xưa nay.
Bất tịnh mang ý nghĩa gì đối với đạo Phật?
Tịnh là một trạng thái tự nhiên như nhiên của nó là chính nó không thông qua một sự diễn dịch, tô vẽ hay bất cứ thêm bớt nào ngoài nó. Đấy là sự rỗng lặng của tâm thức và pháp giới tự tánh (Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng); tịnh hạnh là điệu sống an nhiên tự tại của con người trước hoàn cảnh. Nhóm chữ “bất tịnh” là cách nói nhẹ nhàng thường được dùng thay cho “phạm giới”; nên có một ý nghĩa đặc biệt và quan trọng đối với người Tu theo đạo Phật. Bất tịnh là vọng động, là làm sai, là sự vi phạm giới luật đối với những người theo đạo Phật đã quy y, thọ giới.
Nhân bất tịnh là khi người có những hành động vi phạm giới luật mà mình đã thệ nguyện thi hành, bảo tồn, gìn giữ.
Pháp bất tịnh là khi phương tiện tu hành bị khuấy đục bởi chức danh, lợi nhuận, tà kiến, lạm dụng.
Cửa thiền bất tịnh là khi chốn chùa viện bị lạm dụng, biến thành nơi thương mãi hoặc Phật tử thuộc mọi cấp độ sinh hoạt trong chùa làm loạn động thiền môn dưới nhiều hình thức mà những hình thức thường thấy nhất là cá nhân hay tập thể tăng ni có trách nhiệm trong chùa có biểu hiện tiêu cực, sa đọa, bất chấp giới luật.
Để ngăn chặn sự bất tịnh xảy ra, Giới – Định – Tuệ là ba dấu chỉ làm cột mốc quan trọng nhất trên con đường tu chứng của một hành giả.
– Không làm những gì gây náo động thân, khẩu, ý; không dính mắc điều sai quấy theo cương lĩnh đã tuyên hứa lúc thọ giới hay quy y (Giới)
– Giữ được sự an yên thể xác và rỗng lặng bản tâm (Định)
– Trí óc tỏa sáng, hiểu thấu thế giới bản lai lắng sâu bên trong và tỏa rộng bên ngoài (Tuệ)
Trạng thái bất tịnh phát xuất từ bên trong (hành giả – người tu) hay bên ngoài (hoàn cảnh – môi trường) đều là gốc rễ của mọi tệ nạn, suy đồi, thoái trào trong quá trình tu hành của người theo đạo Phật xuất phát từ nguyên nhân không giữ Giới (phạm giới).
Một ngôi chùa hay tự viện bất tịnh là khi nơi đó trở thành một cơ sở hay môi trường xa rời thanh tịnh, bị khuấy đục bởi con người hay hoàn cảnh xuất phát từ nội bộ. Cụ thể là hiện tượng thoái trào trong ba hình thái sinh hoạt thường thấy: Tiền bạc, cơ sở vật chất, pháp khí do đàn na tín thí cúng dường bị lạm dụng. Người từ trong chùa hành động hay phát ngôn trái khuấy, bất minh.
Nhận diện dấu hiệu bất tịnh đối với đạo Phật Việt Nam
Cuộc chiến Việt Nam 30 năm (1954 -1975) và cuộc sống 50 năm (1975-2025) trong hòa bình, thống nhất đã để lại cho thế hệ kế thừa gia tài gì hay món nợ gì thì đã có lịch sử khách quan đã và đang ghi chép để phê phán công bằng. Riêng đối với người Việt Nam trong thế hệ Chiến Tranh Việt Nam thì có hơn ba phần tư đã về đất nhưng không dễ dàng lặng chìm vào quá khứ bị quên lãng. Sự thừa hưởng cũng như mức chịu đựng quá lớn; có chỗ hợp lý cũng như có chỗ phi lý mà các lý thuyết nhất thần giáo (monotheism) như Do Thái giáo, Ki Tô giáo, Hồi Giáo, phái chính Ấn Độ giáo thường có chung một cách lý giải đơn giản khó thuyết phục là “ý Trời, ý Thượng Đế, ý Chúa…”. Chỉ riêng Phật giáo trên cơ sở giáo lý “Duyên Khởi – duyên nghiệp trùng trùng” là có thể giải thích làm thỏa mãn đại chúng thuộc nhiều khuynh hướng, ngay cả những đầu óc duy lý, hàn lâm kinh điển nhất.
Ngày nay, hiện tượng tuổi già cũng như tuổi trẻ thuộc nhiều khuynh hướng tư duy và hoàn cảnh xuất thân thời cận đại và hiện đại nô nức đến chùa hành hương và tu học đã khiến mức độ phát triển của đạo Phật, Đông cũng như Tây, tăng lên rầm rộ. Và hệ quả tất nhiên của sự phát triển chùa viện cũng như sự thu hút người đi tu (xuất gia cũng như tại gia) tăng lên rất nhanh. Trong thế giới tương đối, mở mắt ra là đã thấy xuất hiện tác dụng của Nhân Duyên. Từ đó, duyên lành cũng như vọng nghiệp cùng nhau tăng theo.
Chính thời đại kinh tế thị trường toàn cầu hóa và cách mạng khoa học kỹ thuật trong truyền thông đại chúng, giao thông vận tải là ngọn lửa thử vàng công hạnh tu hành, đức hạnh nghiêm trì giới luật của người Phật tử xuất gia cũng như tại gia, Đông cũng như Tấy, trong cũng như ngoài nước.
Sau hơn 50 năm, thời gian dài đủ cho ngọn lửa thử vàng đã “phân kim” đâu là thiện giả, đâu là ác đồ; đâu là chân dung Tăng già hòa hợp xiển dương Đạo pháp, đâu là hình ảnh Tứ chúng Phật tử đồng tu, đâu là phường nghịch chùa, rối đạo.
Cửa thiền bất tịnh, trách nhiệm về ai?
Vấn đề “Thiền Môn Bất Tịnh” trong Phật giáo Việt Nam, nếu hiểu theo nghĩa đen là những sự việc, hành vi làm lu mờ tịnh hạnh chốn thiền môn, có thể bao gồm các hiện tượng vi phạm giới luật, tranh chấp nội bộ, lạm dụng nguồn hỗ trợ và cúng dường. Tác dụng tiêu cực trầm trọng nhất là những hình thức suy thoái đạo đức, xuống cấp uy nghi của hàng tăng lữ trong một số chùa viện, tịnh xá.
Về phương diện tổ chức và điều hành truyền thống xưa nay sinh hoạt theo ngành dọc thì khi có vấn đề bất tịnh xảy ra thì hàng giáo phẩm đứng đầu đến các cấp trực tiếp liên hệ cần có trách nhiệm xem xét, xử lý và chấn chỉnh.
Thứ đến và cũng là quan trọng nhất là cá nhân nào vi phạm giới luật hoặc có hành vi làm ảnh hưởng đến hình ảnh Phật giáo, thì họ phải chịu trách nhiệm trước giáo hội và cộng đồng.
Cư sĩ Phật tử cũng có trách nhiệm trong việc quan sát, góp ý xây dựng, tránh tôn sùng mù quáng; đồng thời đại chúng cũng cần lên tiếng trước những vấn đề tiêu cực, giúp Phật giáo giữ được nếp tu hành thanh tịnh và trong sáng.
Sự minh bạch và công khai trước những sự việc tiêu cực cũng như hướng giải quyết rõ ràng, để bảo vệ hình ảnh quang minh chính đại của Phật giáo là một quá trình hoằng pháp chân chính giúp Phật tử hiểu đúng đạo và tránh xa những điều mê tín hoặc lợi dụng tôn giáo để trục lợi.
Nói tóm lại, việc giữ gìn sự thanh tịnh của Thiền Môn không chỉ là trách nhiệm của riêng cá nhân hay tổ chức nào mà là của cả cộng đồng Phật giáo; từ Giáo hội, Tăng Ni, đến Phật tử và xã hội.
II. Thanh Tịnh Nội Tâm là căn cơ cốt lõi cho sự hòa hợp, hòa giải ở mọi cấp độ.
1.Hòa hợp bắt đầu từ mỗi cá nhân:
Phải nói là mọi sự đến và đi, sinh và diệt bắt đầu từ duyên. Duyên có duyên lành (thiện duyên) và duyên chướng (ác duyên). Duyên và Tâm sinh khởi, biến hiện, tương tác lên nhau: Tâm thiện khởi phát duyên lành và ngược lại.
Một cá nhân có chân tâm thanh tịnh, cảm nhận bình an sẽ lan tỏa năng lượng tích cực đến xung quanh. Khi một người giảm bớt sân hận, họ thôi tạo ra những xung đột nhỏ trong giao tiếp hằng ngày. Khi một người bớt tham lam, họ biết sẻ chia của cải, kiến thức, cơ hội. Khi một người biết buông bỏ si mê, họ lắng nghe người khác với sự thấu hiểu và cảm thông. Sự thay đổi từ bên trong dần dần tạo ra những tương tác hài hòa trong gia đình, giữa bạn bè, hàng xóm, đồng nghiệp.
Căn bản bắt đầu từ chính mỗi người.
Mỗi chúng ta có thể bắt đầu từ những bước nhỏ: thực hành thiền định, kiểm soát cơn giận, biết lắng nghe và tôn trọng người khác. Tập thói quen nhìn sâu vào nội tâm để thấu hiểu những động cơ hành động của mình. Mỗi ngày, chỉ cần vài phút ngồi yên, quán chiếu hơi thở, chúng ta có thể dần làm lắng dịu tâm thức, tạo tiền đề cho hành động thiện lành.
2. Gia đình là nền tảng của tương tác và hòa hợp xã hội:
Gia đình là tế bào cơ bản của xã hội và cũng là đơn vị cơ bản của cộng đồng. Nếu mỗi thành viên trong gia đình nuôi dưỡng nội tâm thanh tịnh, yêu thương, hiểu biết, gia đình ấy sẽ trở thành một môi trường an lành. Những đứa trẻ lớn lên trong sự che chở, tôn trọng, và khuyến khích hướng thiện sẽ trở thành những công dân có khả năng đóng góp cho hòa bình xã hội. Ngược lại, nếu nội tâm người lớn đầy mâu thuẫn, giận hờn, ích kỷ, sẽ rất khó để thế hệ sau biết đến giá trị của an hòa và công bằng.
Gia đình là một đơn vị cơ bản và lý tưởng nhất để chia sẻ phương pháp thiền tập, nói về ý nghĩa của hòa bình nội tâm với người thân. Tổ chức các buổi sinh hoạt ngắn, thiền tập chung, để mọi người cùng trải nghiệm sự tĩnh lặng. Khi xảy ra mâu thuẫn, hãy thực hành nghệ thuật lắng nghe sâu sắc và giao tiếp từ ái. Khuyến khích một môi trường tuổi trẻ trong gia đình lớn lên và sinh hoạt không bạo lực, không áp lực, biết tương kính và hỗ trợ nhau.
3. Từ Cộng đồng đến Quốc gia và lan ra quan hệ Quốc tế
Khi sự thanh tịnh nội tâm lan tỏa với người trong gia đình thì gia đình có khả năng làm một đơn vị quý trong cộng đồng; từ đó, tình làng nghĩa xóm sẽ phát huy hài hòa và bền chặt hơn, các xung đột nhỏ bé được giải quyết bằng đối thoại và thấu cảm thay vì bằng bạo lực. Cộng đồng không còn là nơi để tranh giành quyền lợi, mà trở thành một không gian để mọi người cùng hỗ trợ nhau vượt qua khó khăn. Sự tin cậy lẫn nhau gia tăng, giúp giảm bớt tội phạm, giảm căng thẳng xã hội, mở ra những cơ hội hợp tác, phát triển chung. Từ những cộng đồng đoàn thể, môn phái, bộ tộc hòa hợp và ổn định tiến đến sự gắn kết nhiều đơn vị trong một quốc gia hòa bình, an lạc là một khuynh hướng phát triển tự nhiên và tích cực.
Các truyền thống tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo, có trách nhiệm lớn trong việc giáo dục cộng đồng về giá trị của thanh tịnh nội tâm. Qua giáo lý, nghi lễ, thiền định, qua sự gương mẫu của chư Tôn Đức, con đường hướng đến an lạc nội tâm được trình bày một cách sống động. Chùa chiền, tự viện, thiền viện không chỉ là nơi thờ phụng, mà còn là trường học của lòng nhân, của sự tĩnh lặng và của tình huynh đệ.
III – Thách thức và cơ hội của Phật Việt thời hiện đại và tương lai.
Theo Báo cáo Tổng kết Công tác Phật sự năm 2024 của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, hiện nay Phật giáo Việt Nam có các số liệu thống kê như sau:
Tăng Ni: Tổng cộng 54.973 vị, bao gồm:
Bắc tông: 40.807 vị
Nam tông Khmer: 7.028 vị
Nam tông Kinh: 1.754 vị (1.100 Tăng và 654 Ni)
Khất sĩ: 5.384 vị
Tự viện: Tổng số 18.544 cơ sở, bao gồm:
Tự viện Bắc tông: 15.871
Chùa Nam tông Khmer: 462
Salate (Phật giáo Nam Tông Khmer): 45
Chùa Nam tông Kinh: 106
Tịnh xá: 541
Tịnh thất: 467
Niệm Phật đường: 998
Tự viện Phật giáo người Hoa: 54
Tín đồ: Khoảng 59 triệu (60% trong tổng số 99 triệu dân số Việt Nam.)
Phật giáo Việt Nam, Phật giáo thế giới, cũng như nhiều tôn giáo lớn đứng hàng đầu của thế giới đều trực tiếp hay gián tiếp đối diện với những thách thức thời đại, cụ thể như sau:
(1) Cách mạng thông tin kỹ thuật phủ nhận và đả phá tính bí nhiệm mặc khải đầy huyền thoại của tôn giáo, đặc biệt là các giáo phái phương Tây có gốc rể từ thời Trung Cổ. Kiến thức mới và ứng dụng của khoa học càng ngày càng tân tiến, thực dụng đẩy lùi ảnh hưởng tôn giáo bằng cả hai mức độ tích cực lẫn tiêu cực.
(2) Thế quyền, giáo quyền và siêu quyền lực đan xen lẫn nhau; khi quyền lực nầy lấn át quyền lực kia thì tôn giáo sẽ bị động (bất tịnh). Khi tôn giáo bị dồn vào thế hạ phong thì phải ở vào thế thoái trào, bị động; muốn tồn tại thì phải biến tướng thành công cụ hay phương tiện lệ thuộc vào quyền lực thượng phong.
(3) Kinh tế thị trường toàn cầu và cám dỗ vật chất thường xuyên của cá nhân, gia đình, nhóm phái và xã hội tạo ra những thách thức cũng như xung đột với sức mạnh thuần khiết tâm linh, phá đổ rào cản giới luật, tha hóa phẩm chất nhân sự của tôn giáo.
(4) Sự phát triển nhảy vọt của những hình thức khoa học kỹ thuật hiện đại đặt ra những thách thức mới đối với tôn giáo, chủ yếu liên quan đến nhận thức về vũ trụ, sự sống, đạo đức và bản sắc con người như:
– Trí tuệ nhân tạo (AI = Artificial Intelligence)
AI đang dần thay thế nhiều vai trò của con người, bao gồm cả lĩnh vực tâm linh như tư vấn, hướng dẫn đạo đức. Một số người lo ngại AI có thể làm lung lay quan niệm về linh hồn và ý thức, những điều mà nhiều tôn giáo xem là độc quyền của con người.
– Công nghệ sinh học và chỉnh sửa gen (CRISPR)
Kỹ thuật chỉnh sửa gen có thể thay đổi bản chất con người, điều này đặt ra câu hỏi về quyền năng sáng tạo vốn trước đây chỉ thuộc về thần thánh. Việc tạo ra sự sống nhân tạo hoặc biến đổi DNA con người có thể làm thay đổi quan điểm truyền thống về sự sáng tạo của Thượng Đế.
– Khám phá vũ trụ và vật lý lượng tử
Việc phát hiện các hành tinh có điều kiện sống ngoài Trái Đất đặt ra câu hỏi về vị trí đặc biệt của loài người trong vũ trụ. Các nghiên cứu vật lý lượng tử, như thuyết đa vũ trụ, có thể làm lung lay niềm tin vào một vũ trụ duy nhất được Thượng Đế tạo ra.
– Thuyết tiến hóa và khoa học sự sống
Dù đã có từ lâu, thuyết tiến hóa của Darwin vẫn mâu thuẫn với quan điểm nhân sinh luận của nhiều tôn giáo. Sự phát triển của sinh học tổng hợp và khả năng tạo ra sự sống nhân tạo tiếp tục đặt ra thách thức về vai trò của thần thánh trong việc tạo dựng sự sống.
– Thực tế ảo (VR) và Metaverse
Những không gian ảo có thể làm thay đổi trải nghiệm tôn giáo truyền thống, khiến một số người đặt câu hỏi về tính xác thực của các nghi thức và trải nghiệm tâm linh. Nếu con người có thể “sống” trong thế giới ảo, câu hỏi về linh hồn và sự tồn tại sau khi chết cũng có thể bị thách thức.
– Công nghệ bất tử và cấy ghép não
Các nghiên cứu kéo dài tuổi thọ, tải não bộ lên máy tính (mind uploading) có thể làm thay đổi quan niệm về cái chết và kiếp sau. Nếu con người có thể trở nên bất tử nhờ khoa học, niềm tin vào thiên đường, địa ngục hay vòng luân hồi có thể bị suy giảm.
Những thách thức thời đại đối với tôn giáo là phổ quát và cụ thể với tốc độ càng ngày càng nhanh và áp lực càng ngày càng mạnh theo đà tiến hóa của cuộc cách mạng truyền thông và ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật. Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thường ví giáo lý của Ngài như một liều thuốc tốt để chữa lành bệnh khổ của chúng sinh. Trong Phật giáo, ba độc tham – sân – si được xem là nguồn gốc của mọi đau khổ và luân hồi sinh tử. Giáo pháp của Đức Phật chính là phương thuốc giúp chúng sinh trị dứt ba độc này, mang lại sự giác ngộ và giải thoát. Đối mặt với những thách đố thời đại là một nguy cơ: Trong nguy hiểm có cơ hội! Tinh thần từ bi, trí tuệ của Phật giáo là phương thuốc mầu nhiệm để đối trị những vấn đề thời đại mà bằng trực giác hay suy niệm, kẻ khách quan đều có thể nhận thức được sự ứng dụng phương thức “thuốc hay giải bệnh” như sau:
Với môi trường Truyền thông: Cổ vũ giá trị hòa bình và lòng nhân ái
Truyền thông đại chúng ngày nay có sức ảnh hưởng sâu rộng. Báo chí, truyền hình, mạng xã hội, phim ảnh có thể trở thành công cụ hiệu quả thúc đẩy lòng từ bi, sự cảm thông, đối thoại liên văn hóa. Thay vì cổ vũ bạo lực, dối trá, kỳ thị, truyền thông có thể đưa ra những câu chuyện tích cực, nêu gương những cá nhân và cộng đồng đang nỗ lực xây dựng hòa bình, khơi dậy lòng nhân ái. Qua đó, thanh tịnh nội tâm sẽ không còn là khái niệm tách biệt, mà được thể hiện sinh động trong dòng chảy thông tin toàn cầu.
Với những sách lược chính trị: Dựa trên tinh thần và đạo lý từ bi, trí tuệ
Một quốc gia được lãnh đạo bởi những con người có tâm thanh tịnh, sáng suốt sẽ đưa ra những chính sách hướng đến công bằng, phát triển bền vững và an sinh cho toàn dân. Khi nhà hoạch định chính sách có khả năng lắng nghe nhiều phía, hiểu được nỗi khổ đau của người dân, họ sẽ xây dựng luật pháp và thiết chế mang lại lợi ích dài lâu, thay vì chạy theo lợi ích ngắn hạn. Điều này không chỉ dừng lại ở kinh tế, giáo dục, y tế, mà còn nằm ở cách thức quốc gia ứng xử với các xung đột nội bộ, giải quyết tranh chấp một cách công minh, bình đẳng.
Với lĩnh vực đối ngoại: Dựa trên tâm lý Lục Hòa và ý chí Bi Trí Dũng
Trên bình diện quốc tế, nếu các nhà lãnh đạo chính trị được soi sáng bởi tinh thần từ bi và trí tuệ, họ sẽ ưu tiên đối thoại thay vì đối đầu, hợp tác thay vì cấm vận, chia sẻ thay vì chiếm hữu. Thanh tịnh nội tâm của một cá nhân có thể bị xem như nhỏ bé so với những cường lực chính trị trên thế giới, nhưng nếu ngày càng nhiều cá nhân trong giới lãnh đạo, ngoại giao, và hoạch định chiến lược cùng hướng đến giá trị này, xung đột quốc tế sẽ có cơ hội giảm thiểu. Các hiệp ước hòa bình, công ước nhân quyền, các khuôn khổ thương mại công bằng và bền vững sẽ được hình thành. Mối quan hệ giữa các quốc gia sẽ không chỉ dựa trên lợi ích kinh tế – quân sự mà còn dựa trên lòng tôn trọng lẫn nhau, sự hiểu biết khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ, tín ngưỡng.
Với Sự hợp tác đa phương: Xây dựng cộng đồng quốc tế an hòa
Liên Hiệp Quốc và các tổ chức quốc tế khác chính là những môi trường lý tưởng để chia sẻ tư tưởng hòa bình dựa trên sự thanh tịnh nội tâm. Các diễn đàn, các chương trình phát triển bền vững, hỗ trợ nhân đạo, giáo dục vì hòa bình, giao lưu văn hóa và tôn giáo có thể được thực hiện một cách sâu rộng hơn, nếu chúng ta coi trọng yếu tố nội tâm trong quá trình đối thoại.
Ủng hộ và tham gia các hoạt động thiện nguyện, các dự án giáo dục hòa bình, các hội thảo, tọa đàm liên tôn giáo, liên văn hóa. Góp phần xây dựng những mô hình cộng đồng hòa hợp, chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức về quản lý xung đột. Trên bình diện quốc tế, tham gia tích cực vào các diễn đàn hòa bình, ủng hộ các hiệp ước giải trừ quân bị, tôn trọng nhân quyền, bình đẳng giới, và bảo vệ môi trường như một phần không thể tách rời của hòa bình bền vững.
IV. Thông Điệp từ Vesak và Lời Kết
Đại lễ Vesak là cột mốc thời gian tuyệt vời để chúng ta cùng nhìn lại con đường mà Đức Phật đã khai mở. Ngài không chỉ mang đến một triết lý, một tôn giáo, mà còn trao cho nhân loại một “bản đồ” tâm linh dẫn đến an lạc và giải thoát. Trong bối cảnh ngày nay, thông điệp của Vesak không chỉ dừng lại ở cộng đồng Phật tử, mà cần lan tỏa đến mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia, mọi nền văn hóa. Chỉ khi mỗi chúng ta nhìn lại nội tâm, tinh tấn hành trì, nuôi dưỡng sự trong sáng, mới có thể đóng góp hiệu quả cho nền hòa bình thế giới.
Hòa bình chân chính không phải chỉ đơn thuần là sự vắng mặt của chiến tranh hay xung đột của hoàn cảnh bên ngoài, mà là sự an định, hài hòa khởi nguồn nội tại từ tâm ý của mỗi cá thể trong một tập thể rộng khắp. Một thế giới hòa bình được xây dựng trên nền tảng những tâm hồn thanh tịnh, nhân ái và trí tuệ. Đó là lý do vì sao, trong dịp Vesak 2025 này, chúng ta cùng nhau nhắc nhở: Con đường đến hòa bình thế giới đi qua sự thanh tịnh nội tâm của mỗi chúng sinh. Chúng ta có thể nói hàng ngàn lời kêu gọi hòa bình, nhưng nếu bên trong ta vẫn còn sân hận, sợ hãi, ích kỷ, thì hòa bình ấy chỉ là ảo ảnh của dòng mơ ước đầy hoang tưởng mà thôi. Chỉ khi gốc rễ tham, sân, si được chuyển hóa, ta mới có khả năng đối diện với thách thức từ mọi phía và có phương hướng hòa giải, hòa hợp con người và hoàn cảnh để tiến tới một tương lai hòa bình bền vững và lâu dài.
Hãy để Vesak 2025 trở thành dấu mốc, nhắc nhở nhân loại rằng: Hòa bình thế giới không phải là ảo ảnh. Nó có thể thành tựu từ sự giác ngộ và thức tỉnh nội tâm của từng cá nhân. Từ những ngọn nến chánh niệm thắp lên trong lòng mỗi con người, ánh sáng sẽ dần lan tỏa, soi sáng toàn cầu, để hòa bình chân thật hiển lộ.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Tham luận kết thúc.
Tham luận viên:
Nguyên Thọ Trần Kiêm Đoàn
(Doan Kiem Tran, Ph.D., MSW)