ĐẠI NHẠC HỘI VINH DANH VIỆT NAM CỘNG HÒA & TÔN VINH CHỮ QUỐC NGỮ

0
2611

Chu Tất Tiến.

Một sự kiện rất quan trọng mà có lẽ từ 49 năm nay chưa được cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại lưu tâm nhiều: Vinh Danh Chính Thể và Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa cũng như Vinh Danh tinh thần Dân Chủ, Độc Lập, Tự Do của miền Nam Viêt Nam qua các diễn tiến lịch sử trọng đại. Hầu như trong suốt các thập niên vừa qua, chúng ta vẫn chú trọng đến vấn đề Ngày 30 Tháng Tư năm 1975, với những buổi Mít Tinh tưởng niệm Ngày Quốc Hận với rừng cờ Vàng lộng lẫy tại khắp nơi trên thế giới. Bên cạnh đó là những sinh hoạt ghi nhớ Ngày Quân Lực, các cuộc họp mặt Cựu Tù Chính Trị, họp mặt Cựu Chiến Sĩ từng Binh Chủng, treo Cờ Quốc Gia vào ngày Tết Nguyên Đán tại Thủ Đô Tị Nạn, ngoài ra, ít nhắc nhở tới Lịch Sử Việt Nam Cộng Hòa, để cho thế hệ thứ Hai, thứ Ba hiểu rõ hơn về nguồn gốc dân tộc, về sự hy sinh vô bờ bến của các Chiến Sĩ Quốc Gia bảo vệ Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền. Vì thế, mà các nhóm dư luận viên của Cộng Sản đang hoành hành trên Net, vẫn đứng về phía bên thắng cuộc để mạ lị kẻ thua trận, không dám động đến chính nghĩa của Miền Nam ngời sáng trong 21 năm, từng được cả thế giới nể vì, kính trọng. Chính Thủ Tướng Lý Quang Diệu của Singapore hồi đó, đã mong đất nước ông được như Miền Nam, trong khi các chính phủ các quốc gia Á Châu khác như Đài Loan, Thái Lan, Nam Hàn, Phi Luật Tân, Mã Lai phải gửi người qua làm việc hoặc học tập tại các quân trường của Việt Nam Cộng Hòa.  

Nhận thấy tầm quan trọng của việc làm sáng tỏ Chính Nghĩa Quốc Gia mà Đông Phương Foundation đang chuẩn bị thực hiện một ngày Đại Nhạc Hội Vinh Danh Việt Nam Cộng Hòa và Tôn Vinh Chữ Quốc Ngữ tại Miền Nam California, nơi tụ hội lớn nhất của người Việt Quốc Gia tại hải ngoại. Trong buổi nhạc hội này, một cuốn Video tóm lược về lịch sử Việt Nam Cộng Hòa sẽ được phổ biến, với mục đích nhắc nhở thế hệ trẻ hiểu biết hơn về Lịch Sử Chính Thống của Dân Việt, hiện đang bị Nhà Nước Cộng Sản Viêt Nam bôi xóa, nhằm lấp liếm đi tội ác bán nước, hành dân của chế độ độc tài, man di mọi rợ của họ.

Nhìn lại lịch sử Việt Nam theo dòng chính thống, thì Việt Nam Cộng Hòa đã được thành lập từ năm 1954, sau khi Hiệp Định Geneve được soạn bởi Thực Dân Pháp và Việt Minh, chia cắt nước Viêt Nam ra làm hai miền Nam và Bắc tại vĩ tuyến 17. Miền Bắc dưới danh hiệu là Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo, thực tế là nằm dưới quyến quản lý tối cao của khối Cộng Sản Quốc Tế, đại diện là Nga Sô và Trung Cộng. Nhất cử nhất động của chính phủ miền Bắc đều phải được sự đồng ý và chấp thuận của các Đại Cố Vấn Nga và Tầu. Miền Nam Việt Nam với Quốc Hiệu là Viêt Nam Cộng Hòa, được lãnh đạo trực tiếp bởi Quốc Trưởng Bảo Đại và Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, là một chế độ Tự Do, Nhân Bản, hoàn toàn độc lập, không bị một thế lực ngoại bang nào điều khiển, chỉ nhận sự yểm trợ về tinh thần và tài chánh từ các quốc gia Đồng Minh thuộc thế giới Tự Do, không Cộng Sản. 

Vì nhận thức được chế độ Cộng Sản là chế độ theo Tam Vô Chủ Nghĩa: Vô Tổ Quốc, Vô Tôn Giáo, và Vô Gia Đình, cho nên ngay sau khi hiệp định Geneve được chính thức ban hành, hàng triệu người miền Bắc đã rùng rùng bỏ chạy khỏi quê hương, nơi chôn rau, cắt rốn của mình, tiến về Miền Nam bằng mọi phương tiện cá nhân, băng rừng, vượt suối, lao ra biển khơi để được các chuyến tầu của Đồng Minh cứu vớt. Thực tế, nếu Việt Minh mà không dùng mọi thủ đoạn đàn áp, ngăn cản dòng người di cư, thì có lẽ miền Bắc chỉ còn là miền đất hoang tàn, mọi rợ, và số người di cư sẽ lên đến nhiều triệu người, đa phần dân số của miền Bắc. Vì sợ rằng sẽ không còn dân để chỉ huy, Hồ Chí Minh đã ra lệnh ngăn sông, cấm núi, cho bộ đội, công an canh giữ, ngăn cản, bắt bớ những người dự định di cư vào miền Nam. Nhà tù ở miền Bắc mọc lên như nấm để nhốt những ai không đồng ý với chế độ. Các vụ xử bắn tràn lan làm rung động quốc tế, nhưng không nước nào dám can thiệp, thời gian đó, thế lực Cộng Sản Quốc Tế thật là đáng sợ, nên thế giới chỉ biết chú trọng đến việc trợ giúp miền Nam ổn định và phát triển mà thôi. 

Miền Nam Việt Nam từ đó phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là từ môt sự kiện chính trị vô cùng to lớn là cuộc Trưng Cầu Dân Ý năm 1955, phế truất Quốc Trưởng Bảo Đại, ông vua vắng mặt trong nước từ lâu, để bầu Thủ Tướng Ngô Đình Diệm là vị Tổng Thống đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa. Chính phủ Vì Dân, Do Dân này ngay lập tức được 77 quốc gia công nhận, để rồi sau đó hơn 105 nước có Tòa Đại Sứ tại miền Nam, và 5 quốc gia có đặt Lãnh sự Quán tại Saigon, trong khi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc chỉ có sự công nhận của khối Cộng Sản Quốc tế gồm 5 quốc gia như Liên Sô, Trung Cộng, Cuba, Tiệp Khắc, Bắc Hàn và khu Đông Đức mà thôi. 

Dưới sự điều hành của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, kinh tế Việt Nam Cộng Hòa phát triển rất mạnh. Tổng Sản Lượng Quốc Gia của miền Nam gấp 10 lần miền Bắc. Đặc biệt với chính sách “Cải Cách Điền Địa” cho nông dân được làm chủ đất. Luật buộc các địa chủ không được sở hữu quá 100 hecta đất, còn dư phải bán cho chính quyền để chính quyền bán cho tá điền với giá rẻ mạt. Các tá điền nếu không muốn làm chủ đất thì có quyền ký kết với chủ đất để khai thác đất ruộng trong thời hạn 5 năm. Chủ đất muốn lấy lại đất từ tá điền phải báo trước 3 năm, trong khi tá điền muốn trả lại ruộng chỉ cần báo cho chủ đất 6 tháng. Vì chính sách nông nghiệp ưu đãi nông dân này mà sản lượng lúa gạo tăng nhanh. Hàng năm, miền Nam xuất cảng nhiều triệu tấn gạo sang các quốc gia lân cận. Về kinh tế và tài chánh, thì ngay trong năm 1955, Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho thành lập Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam và Viện Hối Đoái, giao cho các nhân tài từ nước ngoài về nước điều khiển, bãi bỏ đồng tiền Đông Dương. Tổng Thống cho lập các khu kỹ nghệ với ưu đãi về thuế để các tư nhân tự thành lập công ty lớn mà không lo sợ bị phá sản. Với sự lớn nhanh và lớn mạnh như thế, tỷ giá hối đoái giữa đồng Viêt Nam Cộng Hòa và đô la Mỹ là $35 Việt Nam tương đương 1dollar Mỹ, một tỷ lệ hiếm có mà không quốc gia Á Châu nào có được. (Hiện nay là $25,000 VN cho 1 dollar). Công nhận sự phát triển có tính cách khoa học của Việt Nam, chỉ sau 2 năm thành lập, đến năm 1956, Việt Nam Cộng Hòa được mời gia nhập Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế. 

Về Quân Sự, chính phủ chia miền Nam ra làm 4 quân khu, giao cho 4 vị Tướng Tư Lệnh điều khiển. Chính phủ cho phát triển trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, Trường Sĩ Quan Thủ Đức, Trường đào tạo Sĩ Quan Không Quân, Hải Quân để đào tạo nhân tài lãnh đạo quân sự. Các Sinh Viên Sĩ Quan muốn vào các Quân Trường này phải có điều kiện học vấn căn bản, tối thiểu là tốt nghiệp Trung Học. Bên cạnh đó, có các Trung Tâm Huấn luyện đặc biệt cho một số binh chủng, các Trung Tâm Huấn Luyện Tân Binh, huấn luyện Nhân Dân Tự Vệ và lực lượng Biệt Chính áo đen (Cán bộ Xây Dựng Nông Thôn). Vì sự tuyển lựa gay gắt và các chương trình huấn luyện rất khoa học, mà quân đội miền Nam đã tạo ra các vị Tướng Lãnh anh hùng, dũng lược, các Sĩ Quan cấp Tá, cấp Úy cực giỏi về chiến thuật Quân Sự. Vì thế trong cuộc chiến Quốc Gia – Cộng Sản, quân miền Nam thường “Một chấp Ba” quân miền Bắc. Các trận thắng của quân miền Bắc đều do ưu thế Biển Người, thường thì các cuộc tấn công vào một đồn lẻ loi có chừng một đại đội quân miền Nam, quân Cộng sản miền Bắc phải dùng đến 1 hoặc 2 Tiểu Đoàn với trọng pháo nặng mới chiếm được. Trong trận chiến Cổ thành Quảng Trị, quân miền Nam hy sinh khoảng 6000 quân nhân, trong khi miền Bắc tổn thất gần 36,000 cả tử thương và bị thương, trong đó 2 Trung Đoàn Tinh Nhuệ của miền Bắc bị xóa sổ.  (https://petruskyaus.net/tai-chiem-quang-tri-tran-danh-dam-mau-nhut-trong-chien-tranh-vn-lam-vinh-the/).

Trận chiến An Lộc cũng thế, phía Việt Nam Cộng Hòa, cả quân và dân hy sinh trên dưới 10,000 người, ngược lại, Bắc Quân chết trên 35,500. (https://www.nguoi-viet.com/cuu-chien-binh/ccb_t4-thang-tu-nho-lai-tran-chien-loc-1972-vang-danh-gioi/). Nếu chỉ tính trên con số thương vong cả hai miền Nam, Bắc, thì quân Cộng Sản đã “Sinh Bắc, Tử Nam” trên 1 triệu 500,000 bộ đội, dân quân, và thanh niên xung phong. Với tổn thất lớn như thế, miền Bắc đã phải buộc nhập ngũ cả những thiếu niên 15,16 tuổi. Trong số tù binh bị bắt, có nhiều thiếu niên mặt non choẹt, chưa học xong lớp 8, 9. 

Điều đau lòng là Việt Nam Cộng Hòa bị đồng minh phản bội. Năm 1971, người viện trợ lớn nhất là Mỹ đã đi đêm với Mao Trạch Đông, để bán đứng miền Nam cho khối Cộng sản quốc tế. Năm 1972, Mỹ dùng vũ khí là “viện trợ quân sự” để ép Việt Nam Cộng Hòa ký thỏa ước bất quân bình với Miền Bắc. Trong khi Mỹ và đồng minh đồng loạt rút lui, thì Mỹ lại cho hơn 120,000 bộ đội Viêt Cộng được ở lại miền Nam xen kẽ với quân Cộng Hòa, đồng thời “hứa lèo” là sẽ cho đổi vũ khí trên nguyên tắc Môt đổi Một, để rồi tảng lờ cho Trung Cộng chiếm Hoàng Sa, làm thinh cho Cộng Sản vượt khu Phi Quân Sự, đồng loạt tấn công miền Nam, trong khi đó, Mỹ khoanh tay đứng nhìn với cặp mắt của kẻ lạ, nuốt luôn mọi lời cam kết của 5 đời Tổng Thống Hoa Kỳ với Việt Nam Cộng Hòa.

Vì thế, chương trình Đại Nhạc Hội Vinh Danh Việt Nam Cộng Hòa & Tôn Vinh chữ Quốc Ngữ là việc làm cần thiết mà Đông Phương Foundation do Nhà Văn Hóa Quốc Nam chủ trương sẽ tổ chức vào thứ Bẩy 27 tháng 7 năm 2024, từ 1 đến 5 giờ tại hội trường rộng rãi của Thánh Đường “The Church of Jesus Christ of Latter-Day Saints”, số 10332 Bolsa Ave, Westminster, CA 92683. Chương trình văn nghệ có sự tham dự của các giọng ca: Phương Hồng Quế, Trang Thanh Lan, Hương Thơ, Mỹ Lan, Đào Anh Tuấn, Chu Tất Tiến, Ngọc Quyên, Ngọc Đăng, Chế Tùng, Ngô Hoàng Oanh, Thanh Nguyên, Tuấn Khải, Hoàng Sĩ Phú, Vũ Chuyền, Cindy Lý, và Ban Vũ Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ, Ban Vũ Thiếu Nhi cũng của Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ. MC Hương Thơ và Ngọc Đăng. Nhạc sĩ Quốc Vũ.

Rất mong được sự hiện diện đông đảo của đồng hương và các chiến hữu trong ngày Đại Nhạc Hội này để môt lần nữa, đốt lên ngọn đèn Chính Nghĩa Quốc Gia ngời sáng để thế hệ sau này trân trọng. 

Chu Tất Tiến.